Ấn tượng Tron Legacy 3D



Tron: Legacy là phần tiếp theo của bộ phim gốc 1982. Chính công nghệ 3D đã thêm vào những hiệu ứng độc đáo và ấn tượng cho Tron: Legacy bản gốc. Có thể nói Tron: Legacy (2010) xứng đáng là một trong những dấu mốc đánh dấu sự bắt đầu của kỉ nguyên dựng hình vi tính (CGI) trong lịch sử phim ảnh. Đây chính là thành công lớn nhất của Tron: Legacy và có lẽ cũng là lý do Walt Disney đã bắt tay làm phần tiếp theo sau khoảng thời gian lâu đến vậy, 30 năm.

Cốt truyện của Tron: Legacy (2010) có phần tương tự với chuyện phim Jack Frost (1998) của đạo diễn Troy Miller. Nếu Jack Frost kể chuyện một cậu con trai tình cờ gặp lại người cha quá cố trong hình hài của một người tuyết trong một mùa đông nọ thì Tron: Legacy cũng kể chuyện cậu con trai tình cờ tìm lại được cha mình trong thế giới ảo của một chương trình phần mềm sau 20 năm.
Bộ phim bắt đầu với năm 1989, Kevin Flynn (Jeff Bridges) một kĩ sư phần mềm và chủ tịch tập đoàn ENCOM quốc tế đã tạo ra một hệ điều hành số hóa ảo có tên The Grid (mạng điều khiển) tồn tại bên trong hệ thống máy tính trung tâm của tập đoàn ENCOM của ông. Ông kể điều đó cho cậu con trai là Sam Flynn (Garrett Hedlund), khi này còn là cậu bé 7 tuổi. Một buổi tối nọ, Kevin biến mất một cách huyền bí sau khi rời nhà đến văn phòng để tiếp tục hoàn thiện hệ điều hành số hóa ảo The Grid đó. Hai mươi năm sau, Sam đã là một chàng trai 27 tuổi am hiểu về công nghệ vi tính nhưng luôn bị ám ảnh về sự biến mất của cha mình. Cậu tìm mọi cách để điều tra tung tích của cha. Nhờ một manh mối từ một người bạn và đồng nghiệp của cha, Sam tìm đến một căn phòng làm việc cũ của cha và tình cờ phát hiện một cánh cửa thông đến một phòng máy tính ở tầng hầm. Mong tìm hiểu cha mình đã làm gì, Sam truy nhập vào hệ thống máy tính và tình cờ khởi động hệ thống số hóa la-ze đưa cậu vào thế giới ảo The Grid nơi Kevin đã bị mắc kẹt trong vòng 20. Hành trình đầy nguy hiểm trong thế giới The Grid, tìm kiếm và gặp cha và một người máy thân cận của cha, Quorra (Olivia Wilde), và tìm đường để trở lại thế giới thật của Sam bắt đầu.

Được làm lại từ bộ nguyên bản 1982 nhưng tính thú vị và bất ngờ của câu chuyện Tron: Legacy không hề gia giảm bởi nhà làm phim đã thay đổi một số yếu tố của cốt truyện, tạo nên sự khác biệt. Trong bản Tron gốc, nhân vật chính chỉ có Kevin Flynn, một kĩ sư sáng chế trò chơi máy tính và là một hacker, đã xâm nhập vào hệ thống máy tính của ông chủ của mình để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ rồi sau tình cờ bị cuốn vào thế giới ảo và rồi miễn cưỡng phải chiến đấu để bảo vệ thế giới thật khỏi sự cai trị của đế chế vi tính. Trong phiên bản mới Tron: Legacy tháng này, phần mềm của chính chủ tịch tập đoàn ENCOM Kevin này là một thực thể “được lập trình một cách hoàn hảo” đã trở thành một tên độc tài ảo và bắt nhốt Kevin như một tù nhân. Nhân vật chính là Sam trong mối quan hệ cha con với Kevin và với cô gái ảo được lập trình Quorra. Có phải Walt Disney vừa muốn kéo đến rạp những khán giả tuổi teen ngày xưa của Tron: Legacy 1982 nay đã là những ông bà trung niên và đồng thời vừa hướng đến giới trẻ đúng như tiêu chí sản xuất phim của họ?
Giống như những phim khoa học viễn tưởng khác, tính lô gic của phim nằm ở chỗ đó là tương lai. Ví dụ như việc Kevin Flynn một con người thực thể hữu cơ sống trong thế giới ảo hoàn toàn làm bằng những vi mạch điện tử trong vòng 20 năm hay việc thế giới ảo cũng già đi và tự tiến bộ.
Theo một nghĩa nào đó, câu chuyện có phần mang tính chất của những yếu tố thần thoại châu Âu. Mặc dù tập trung vào cuộc tìm kiếm người cha của Sam, nhưng sự đối kháng giành giật sức mạnh của Kevin và hình nhân mã hóa ảo Clu cũng chứng minh các món ăn ưa thích mà các cựu biên kịch của chương trình truyền hình Lost nổi tiếng thích nấu chính là việc tạo ra những câu chuyện có tính sử thi về mối quan hệ giữa người sử dụng (users) và các chương trình (programs) mà họ sáng tạo ra như thể mối quan hệ giữa chúa trời và con người.
Năm 1982, phim “Tron”  đã tạo ra một cuộc cách mạng vào thời đó nhưng lại là một sự thất bại về mặt doanh thu từ các phòng vé. Dường như không có bộ phim nào cùng thời lại “viễn tưởng” đến như vậy. Vào thập kỉ những năm 80 thế kỉ 20, Tron là phim đầu tiên sử dụng kĩ thuật CGI. Việc dàn cảnh bao gồm những công nghệ hiện đại nhất và chính vì thế là một trong những yếu tố tốn kém nhất của sản xuất phim. Những hiệu ứng đặc biệt, kiểu quay matte shot, sử dụng phông nền màu xanh bao quanh bối cảnh là những yếu tố đột phá và đi trước thời đại. Công nghệ phim đã tạo ra sự tự do cho chính chủ đề thỏa sức vùng vẫy trong một thế giới ảo ảnh đến bất ngờ. Tuy nhiên, Tron khi đó vẫn không đủ sức kéo khán giả đến rạp khi họ choáng ngợp bởi E.T, phim khoa học viễn tưởng lừng danh của Steven Spielberg được ra rạp mùa hè năm đó. Doanh thu phòng vé của nó đã thua lỗ $10 triệu đô la, (sau đó phim thu lợi nhuận từ  việc phát hành băng đĩa video).
Yếu tố mới mẻ trong Tron: Legacy 2010 là việc các nhà làm phim đã sử dụng công nghệ 3D. 3D tỏ ra cực kì hữu dụng đối với các cảnh quay có chuyển động cực nhanh và mạnh, bay nhảy, và các cuộc đua xe xuất sắc trong phim. Ngoài ra, nhà làm phim đã có ý khi sử dụng công nghệ 2D và 3D đối với các phần khác nhau trong phim. Phim chuyển đổi từ 2D sang 3D vào phút thứ 24, khi Sam xâm nhập vào thế giới ảo The Grid rồi lại chuyển về 2D khi Sam và Quorra trở lại thế giới thực. Công nghệ 3D đã tăng tính thật cho thế giới ảo The Grid. Công nghệ cũng phù hợp cho việc thiết kế các cảnh nội trong thế giới The Grid. Việc sử dụng công nghệ 3D này làm người xem nhớ đến việc chính Walt Disney đã sử dụng tông màu của phim The Wizard of Oz (Phù thủy xứ Oz) vào thời kì đang phát triển của điện ảnh, 1939. Trong The Wizard of Oz, khi cô bé Dorothy bị cuốn đi từ thế giới thực của làng Kansas đến xứ Oz, xứ sở thần tiên của các phù thủy thì tông màu của phim cũng chuyển từ màu xám, phim đen trắng sang màu rực rỡ, phim màu.
Sự thu hút khác đến là dàn cảnh của Tron: Legacy. Hầu hết được thiết kế giống hệt thế giới bên trong một chiếc máy tính. Có rất nhiều các nhân vật là những mã hóa của máy tính được nhân hình hóa. Điều này đã làm tăng tính thực cho bối cảnh của thế giới ảo.
Trường đoạn đua xe ở phút 40 có thể coi là trường đoạn đặc sắc nhất trong phim bởi ứng dụng hiệu ứng kĩ thuật số. Nếu trong Tron bản đầu tiên, cuộc đua được thiết kế như những theo kiểu những hình hình học thô sơ có những chiếc mô tô di chuyển như thể trong một trò chơi video trong không gian một chiều và hoàn toàn không có yếu tố hợp thành của bối cảnh không gian xung quanh. Ngược lại, thương hiệu của Legacy 2010 nằm ở sự thu hút của các thiết kế và dàn cảnh hấp dẫn. Những tấm kính bao quanh được rọi ánh sáng, các phông màn màu đen đặc được đặt xung quanh, những bộ đồng phục và được phân định bởi ánh sáng và các màu sắc: màu cam và đỏ cho những hình nhân mã hóa của thế giới The Grid và màu xanh và trắng cho Sam và người thực; các dải ánh sáng kết hợp với những đường hình xoắn trong không gian ba chiều, những chiếc mô tô được thiết kế theo kiểu động lực chạy nhanh như tên lửa, những hình nhân mã hóa vỡ tan như thể kính khi bị va đập mạnh cộng hưởng với sức mạnh của nhạc nền techno của Daft Punk (đôi khi nhạc có sức mạnh đến nỗi hình ảnh chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho nó) tạo ra một cảm giác hành động mãnh liệt.
Thông tin bộ phim
Thời lượng: 127 phút
Công chiếu: 17/12/2010 (Mỹ)
Đạo diễn: Joseph Kosinski
Biên kịch: Edward Kitsis và Adam Horowitz
Diễn viên: Jeff BridgesGarrett Hedlund and Olivia Wilde

Comments